https://www.high-endrolex.com/4
https://www.high-endrolex.com/4
- Đăng bởi: Đặng Trang - Ngày đăng : 04/09/2020 - Lượt xem 286
Làm đúng công việc theo thỏa thuận là một trong những ưu tiên hàng đầu của nhiều người khi bắt đầu quan hệ lao động. Và khi không được làm công việc đó nữa, họ sẵn sàng nghỉ việc.
Chỉ phải làm công việc khác hợp đồng 60 ngày/năm
Theo quy định tại Điều 31 Bộ luật Lao động 2012, người sử dụng lao động được tạm chuyển người lao động sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động khi gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, hoả hoạn, dịch bệnh, áp dụng biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Đáng chú ý, chỉ được tạm chuyển người lao động không quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong một năm, trừ trường hợp được sự đồng ý của người lao động.
Lưu ý:
- Khi tạm chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất 03 ngày làm việc, thông báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí công việc phù hợp với sức khoẻ, giới tính của người lao động.
- Nếu tiền lương của công việc mới thấp hơn tiền lương công việc cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ trong 30 ngày làm việc và tiền lương theo công việc mới ít nhất phải bằng 85% mức tiền lương công việc cũ nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng.
Được nghỉ việc khi không bố trí đúng công việc
Điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 nêu rõ, người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong trường hợp:
Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động.
Cũng theo Điều luật này, để đảm bảo nghỉ việc đúng luật, người lao động phải thông báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 03 ngày làm việc.
Lúc này, theo quy định của pháp luật hiện hành, người lao động có thể được trợ cấp thôi việc và trợ cấp thất nghiệp nếu đáp ứng đủ điều kiện. Cụ thể:
* Trợ cấp thôi việc
Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2012, khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Trong đó:
- Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
- Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.
* Trợ cấp thất nghiệp
Người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm 2013:
- Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật hoặc hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng;
- Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng xác định thời hạn/không xác định thời hạn hoặc đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 - 12 tháng;
- Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm;
- Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ, trừ trường hợp thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; đi học có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; bị tạm giam; phạt tù…
Có thể thấy, khi nghỉ việc vì lý do chính đáng, người lao động được hỗ trợ rất nhiều. Ngược lại, khi nghỉ việc trái luật, hay còn gọi là nghỉ ngang, rất có thể người lao động sẽ đối diện với nhiều bất lợi.
Nguồn: Sưu tầm Internet
Đang đăng ký thông tin...